Ký sinh trùng sốt rét: Đặc điểm và cách phòng bệnh bạn cần biết
Ký sinh trùng sốt rét từng là nỗi ám ảnh của cả nhân loại bởi chúng nhiều lần gây ra các trận đại dịch sốt rét. Ngày nay nhờ sự thành công của các chương trình phòng chống sốt rét quốc gia, chúng ta đã thành công ngăn chặn và đẩy lùi sốt rét nhưng chưa hoàn toàn loại trừ được bệnh.
Tổng quan về ký sinh trùng sốt rét và bệnh sốt rét

Sốt rét là một trong những bệnh cổ nhất được biết đến ở loài người. Ký sinh trùng sốt rét Plasmodium spp. gây bệnh sốt rét là loài sinh vật đơn bào thuộc nhóm trùng bào tử ký sinh máu. Trùng sốt rét lây nhiễm qua đường máu, muỗi cái Anopheles là trung gian truyền bệnh cho người khi hút máu chứa trùng sốt rét từ người bệnh lây cho người lành. Cho đến nay có 5 loài ký sinh trùng sốt rét gây bệnh cho người trong điều kiện tự nhiên:
- Plasmodium falciparum: Đây là loại chính gây bệnh và chiếm khoảng 70-80% số ca sốt rét ở Việt Nam. Ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum hầu như chỉ phát triển tốt ở những vùng khí hậu nóng và ẩm.
- Plasmodium vivax: Loại này khá ít gặp, khoảng 20-30% trường hợp mắc sốt rét do ký sinh trùng này gây ra, và nó phổ biến hơn ở vùng khí hậu lạnh.
- Plasmodium Malaria: Hiếm gặp ở Châu Á do đặc điểm sinh trưởng kém trong môi trường nóng ẩm.
- Plasmodium ovale: Loài này chưa thấy ở Việt Nam.
- Plasmodium Knowlesi: Đây là một loài ký sinh trùng sốt rét ở khỉ mới được phát hiện có thể gây bệnh cho người.
Sốt rét là một bệnh quan trọng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nhờ vào hiệu quả của chương trình phòng chống sốt rét quốc gia, đặc biệt hiệu quả của thuốc Artemisinin, Việt Nam đã kiểm soát được bệnh sốt rét và tiến đến mục tiêu loại trừ bệnh vào năm 2030.
Bệnh sốt rét là một bệnh nhiễm trùng máu nguy hiểm do ký sinh trùng sốt rét gây ra. Bệnh sốt rét thường gây ra sốt ngắn hạn, nhưng nếu không được điều trị kịp thời và hiệu quả, nó có thể gây ra biến chứng và gây tử vong.
Hiện nay, ở Việt Nam có 3 chủng ký sinh trùng sốt rét thường gặp là Plasmodium vivax và Plasmodium falciparum và Plasmodium Malaria.
Triệu chứng của bệnh sốt rét thường bao gồm:
- Sốt cao đột ngột: Sốt có thể kéo dài từ vài giờ đến một tuần.
- Cảm giác mệt mỏi và suy nhược.
- Đau đầu và đau cơ.
- Buồn nôn và nôn mửa.
- Rối loạn tiêu hóa.
- Sụt cân.
Biến chứng của bệnh sốt rét có thể rất nghiêm trọng và thậm chí có khả năng gây tử vong. Các biến chứng phổ biến bao gồm:
- Suy thận cấp do vi khuẩn và ký sinh trùng gây ra.
- Giảm đáng kể nồng độ máu đỏ (anemia).
- Xơ cứng máy động mạch vận mạch.
- Mất ý thức và đái tháo đường trong các trường hợp nặng.
Đặc điểm hình thể ký sinh trùng sốt rét
Trùng sốt rét có 4 giai đoạn phát triển trong hồng cầu người:
- Thể nhẫn và tư dưỡng: Là dạng đầu tiên của ký sinh trùng sốt rét khi mới xâm nhập vào hồng cầu. Dạng tư dưỡng non có hình nhẫn với nhân là một chấm đỏ, tế bào chất là một vòng cung màu xanh bao quanh không bào tiêu hoá. Theo thời gian, ký sinh trùng phát triển và trở thành thể tư dưỡng già với nhân to hơn và tế bào chất dày hơn. Đồng thời, trên kính hiển vi quan sát thấy sắc tố sốt rét là những hạt màu nâu đen, kết quả của sự tiêu hoá hemoglobin của hồng cầu.
- Thể phân liệt: Ký sinh trùng phân chia thành nhiều mảnh gọi là mảnh trùng. Khi phân chia đến mức độ nào đó, hồng cầu chứa phân liệt sẽ bị vỡ và các mảnh trùng lan tràn khắp nơi, tiếp tục tìm các hồng cầu bình thường khác để xâm nhập.
- Thể giao bào: Là thể hữu tính gồm giao bào đực và cái, thể này tiếp tục phát triển trong dạ dày muỗi và là nguồn gốc lây lan bệnh sốt rét.
Đặc điểm sinh học
Khi xâm nhập vào hồng cầu, ký sinh trùng sốt rét có những đặc điểm khác biệt nhau tuỳ theo loài. P. vivax và P. ovale có khuynh hướng xâm nhập hồng cầu non trong khi P. malarie thì chọn hồng cầu già, P. falciparum không phân biệt hồng cầu.
Để phát triển, chúng tiêu thụ hemoglobin của hồng cầu. Khả năng sống của chúng ở ngoài cơ thể người tuỳ thuộc vào khả năng sống của hồng cầu mà chúng ký sinh. Các nghiên cứu cho thấy P. malarie và P. falciparum có thể sống đến 10 ngày trong máu bảo quản 4 độ C.
Triệu chứng lâm sàng của bệnh sốt rét là do các thể tư dưỡng và phân liệt trong máu gây ra. Triệu chứng của sốt rét thường (sốt rét cơn) thường không đặc hiệu, ngoài sốt, lạnh run bệnh nhân có thể kèm theo ra nhức đầu, đau cơ, đau khớp, yếu người, nôn ói, tiêu chảy. Biến chứng của bệnh là lách to, thiếu máu, giảm tiểu cầu, hạ đường huyết, rối loạn chức năng hô hấp và thận, thay đổi thần kinh.
Bệnh cảnh lâm sàng rất thay đổi tuỳ thuốc vào loại ký sinh trùng gây bệnh, mật độ ký sinh trùng trong máu và miễn dịch của cơ thể. Bệnh của P. falciparum dễ chuyển nặng và gây tử vong do biến chứng thần kinh trung ương (sôt rét thể não), suy thận cấp, thiếu máu nặng, vàng da. P. vivax gây lách to và P. malarie gây hội chứng thận hư.
Các loại ký sinh trùng sốt rét phổ biến hiện nay
Chu kỳ phát triển của ký sinh trùng sốt rét
Giai đoạn vô tính trong cơ thể người
Khi muỗi Anopheles cái đốt người, tiêm thoa trùng vào da. Thoa trùng chui qua mạch máu để lưu thông trong máu đến gan. Chúng xâm nhập vào tế bào chủ và bắt đầu thời kỳ sinh sản vô tính, được gọi là chu trình tiền hồng cầu. Thoa trùng phát triển dần đến thể phân liệt, thể phân liệt vỡ ra phóng thích các mảnh trùng vào máu. Một thoa trùng có thể tạo ra từ 10000 đến hơn 30000 mảnh trùng.
Đối với P.vivax và P.ovale, một số thể trong gan không phân chia ngay lập tức thành thể phân liệt mà vẫn nằm yên trong nhiều tháng đến nhiều năm, được gọi là thể ngủ. Các thể này tiềm tàng trong gan, từng đợt thành thể phân liệt, vỡ ra tung mảnh trùng vào máu gây ra những cơn tái phát (đặc trưng của sốt rét vivax và ovale). Các mảnh trùng từ gan sẽ xâm nhập vào hồng cầu rồi trưởng thành dần từ thể nhẫn thành thể tư dưỡng thể phân liệt, gây vỡ hồng cầu phóng thích 6 – 30 mảnh trùng thế hệ mới.
Giai đoạn ký sinh trùng sốt rét ở gan:
Trong giai đoạn đầu, ký sinh trùng sốt rét sau khi được truyền vào cơ thể người thông qua muỗi Anopheles, chúng nhanh chóng di chuyển đến gan. Tại đây, ký sinh trùng sốt rét sẽ phát triển và nhân lên trong các tế bào gan trong một giai đoạn được gọi là giai đoạn tiền tiết. Lúc này, ký sinh trùng không gây ra triệu chứng hoặc dấu hiệu nào trên người mắc bệnh.
Giai đoạn ký sinh trùng sốt rét ở hồng cầu
Sau khi ký sinh trùng đã phát triển đủ trong gan, chúng sẽ rời gan và bắt đầu xâm nhập vào các tế bào hồng cầu của người. Sau đó, chúng sẽ tiếp tục phát triển, nhân lên và phá hủy các tế bào hồng cầu. Quá trình này gây ra sự suy giảm nồng độ hồng cầu, gây ra triệu chứng của bệnh sốt rét như sốt cao, cảm giác mệt mỏi, buồn nôn, mất cân đối giảm cân, và trong các trường hợp nặng có thể gây tử vong.
Qua những giai đoạn trên, ký sinh trùng sốt rét liên tục tạo ra những vòng sốt rét trong cơ thể người, làm lây lan bệnh và gây ra triệu chứng và biến chứng của sốt rét.
Đối với P.vivax và P.ovale, một số thể trong gan không phân chia ngay lập tức thành thể phân liệt mà vẫn nằm yên trong nhiều tháng đến nhiều năm, được gọi là thể ngủ. Các thể này tiềm tàng trong gan, từng đợt thành thể phân liệt, vỡ ra từng mảnh trùng vào máu gây ra những cơn tái phát (đặc trưng của sốt rét vivax và ovale). Các mảnh trùng từ gan sẽ xâm nhập vào hồng cầu rồi trưởng thành dần từ thể nhẫn thành thể tư dưỡng thể phân liệt, gây vỡ hồng cầu phóng thích 6 – 30 mảnh trùng thế hệ mới.
Giai đoạn hữu tính trong muỗi
Khi muỗi Anopheles cái hút máu người bệnh, chúng hút ký sinh trùng sốt rét vào dạ dày. Các giao bào đực và cái chuyển thành giao tử đực và cái. Giao tử đực kết hợp giao tử cái tạo ra hợp tử, hợp tử chuyển động trở thành trứng di động. Trứng di động chui qua vách dạ dày trở thành trứng nang nằm giữa vách và lớp màng đáy.
Khi trứng nang trưởng thành vỡ, thoa trùng bơi trong xoang cơ thể đến tuyến nước bọt và tụ tập ở đó. Khi muỗi đốt người khác, thoa trùng lại xâm nhập vào máu và tiếp tục giai đoạn vô tính trong cơ thể người.