Thực trạng tư vấn xét nghiệm hiv tại trung tâm phòng, chống HIV/AIDS Phú Yên và các mối liên quan
Tư vấn xét nghiệm HIV (VCT) là một hoạt động đem lại lợi ích trong việc phòng ngừa và kiểm soát dịch HIV nhằm phát hiện các trường hợp nhiễm HIV, giúp cho người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của họ, giới thiệu chuyển gửi người nhiễm HIV đến cơ sở chăm sóc điều trị ARV
Một nghiên cứu phân tích gần đây cho thấy cần có thêm nhiều nghiên cứu để khảo sát về đặc điểm dân số - xã hội, hành vi nguy cơ, đối tượng nào cần vận động để tham gia VCT nhằm sớm phát hiện tình trạng nhiễm HIV.Tại Việt Nam, có nhiều nghiên cứu về tư vấn xét nghiệm HIV, tuy nhiên chỉ tập trung vào các đối tượng nguy cơ cao như: người nghiện chích ma túy, nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM), bệnh nhân lao, phụ nữ mang thai, nhưng chưa tìm thấy nghiên cứu nào khảo sát ở các đối tượng tìm đến dịch vụ VCT tại cơ sở y tế và mối liên quan.
Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa đồng ý xét nghiệm HIV và các yếu tố dân số - xã hội, tiền sử, kiến thức về HIV.
Đối tượng – Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành trên 182 người tham VCT tại Trung tâm PC HIV/AIDS Phú Yên độ tuổi từ 15 trở lên, được phỏng vấn trực tiếp bằng phiếu xác nhận đồng ý xét nghiệm HIV của người tham gia tư vấn theo Thông tư 01/2015/TT-BYT ngày 27/02/2105 của Bộ Y tế về việc Hướng dẫn tư vấn phòng, chống HIV/AIDS tại cơ sở y tế. Các biến số về dân số xã hội và tiền sử bản thân, kiến thức HIV đồng thời cũng đã được ghi nhận. Phép kiểm định chi bình phương và số đo PR với KTC 95% để xác định có hay không mối liên quan với đồng ý tham gia xét nghiệm HIV. Phép kiểm định phi tham số Mann-Whitney với biến số nhị giá, kiểm định Kruskal Wallis với biến số danh định.
Kết quả: Qua tiến hành khảo sát tỷ lệ đồng ý tham gia xét nghiệm HIV là 91,2%, trong đó kết quả HIV dương tính là 5,4%. Các đối tượng tham gia nghiên cứu chủ yếu tập trung ở nhóm tuổi 25-49 70,3%; nam 78%; đang sinh sống ở Phú Yên 92,9%; trình độ học vấn từ cấp 3 trở xuống 73,6%; lao động chân tay 67,6%; đã kết hôn 52,7%; chưa có con 51,7%; đối tượng khác 92,9% với hành vi nguy cơ là QHTD (46,7%) và nguy cơ khác của bản thân (47,8%). Đồng ý xét nghiệm HIV ở các đối tượng có trình độ học vấn hết cấp 3 và trên cấp 3 cao gấp 1,07 và 1,29 lần so với các đối tượng có học vấn dưới cấp 3 với p=0,038, KTC 95%: 0,72-1,28 và KTC 95%: 0,96-1,39.
Kết luận: Nghiên cứu tìm ra mối liên quan giữa việc đồng ý xét nghiệm với những đối tượng có trình độ học vấn từ cấp 3 trở lên. Do đó, cần đẩy mạnh công tác truyền thông, kết hợp, lồng ghép hoạt động chương trình phòng, chống HIV với các chương trình y tế khác. Cụ thể hóa nội dung truyền thông liên quan đến HIV cần hướng tới đối tượng ở vùng sâu vùng xa, nơi có trình độ học vấn còn thấp, có khả năng nhiễm HIV cao và vận động các đối tượng có hành vi nguy cơ cao nên đến các cơ sở y tế gần nhất để được tư vấn, xét nghiệm HIV nhằm phát hiện sớm để kịp thời tiếp cận dịch vụ điều trị.